Nhuộm màu cho giấy
Nhuộm màu cho giấy
A. Đặt vấn đề
Các chất màu dùng trong công nghiệp giấy với nhiều lý do, vừa mang vẻ mỹ quan vừa để mã hóa nhận biết sản phẩm. Việc chọn màu cho thích hợp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như yêu cầu sử dụng cuối cùng, các tính chất lý hóa, các đặc tính tồn trữ.
Có thể dùng một trong bốn nhóm màu sau:
Pigment (bột màu phân tán)
Phẩm nhuộm tổng hợp
Phẩm nhuộm trực tiếp
Phẩm nhuộm huỳnh quang
Các phẩm màu khác nhau về tính chất vật lý, tính chất hóa học, độ bền, độ tương tác với xenlulose,khoảng pH hiệu quả, độ hòa tan…Mặc khác, các nhà cung cấp khác nhau cũng cho ra những dòng phẩm nhuộm với những ưu, nhược điểm khác nhau nhằm mang tính chất cạnh tranh.
Trong quá trình sản xuất có sử dụng phẩm nhuộm, đã làm nảy sinh một vấn đề khác là độ màu tồn đọng trong nước thải gây ảnh hưởng đến nguồn nước tiếp nhận.
Vấn đề đặt ra ở đây là, làm sao có thể chọn được nhà cung cấp phẩm nhuộm thích hợp với điều kiện sản xuất và yêu cầu sản phẩm đầu ra của nhà máy, để chi phí sản xuất là thấp nhất, độ màu trong nước thải được hạn chế đến mức tối đa, nhằm góp phần giảm độ màu trong nước thải sẽ giảm được nguy cơ ô nhiễm nguồn nước tiếp nhận.
B. Tổng quan về phẩm màu
1. Lý thuyết cơ bản về màu sắc
Thuốc nhuộm có những màu sắc khác nhau là do chúng có khả năng hấp thụ chọn lọc các tia thấy được của quang phổ ánh sáng mặt trời. Mọi vật xung quanh ta có muôn màu muôn vẻ cũng là do chúng có khả năng hấp thụ và phản xạ những tia sáng khác nhau:
Vật có màu đen là do hấp thụ hoàn toàn tia tới thấy được
Vật có màu trắng là do phản xạ hoàn toàn tia tới thấy được
Vật chỉ hấp thụ một phần những tia tới và phản xạ phần còn lại với tỉ lệ các tia phản xạ gần bằng nhau thì có màu xám. Nếu trong số các tia phản xạ có một vài tia trội hơn thì vật sẽ có màu đa sắc, chỉ phản xạ một tia duy nhất thì có màu đơn sắc.
1.1. Tên gọi thuốc nhuộm
Gồm ba phần:
Phần 1: Để chỉ lớp thuốc nhuộm, viết bằng chữ đầy đủ, thường là tiếng anh, chỉ tên lớp thuốc nhuộm theo phân lớp kỹ thuật như: trực tiếp, acid…hoặc có thể dùng tên riêng của hãng sản xuất phải hiểu nó thuộc nhóm thuốc nhuộm nào.
Phần 2: Dùng để chỉ màu, thường là các tính từ chỉ màu thuốc nhuộm, có thể là màu đơn hoặc màu kép (thường bằng tiếng anh).
Phần 3: Là chữ cái và số dùng để chỉ:
Ánh màu (thường dùng là L)
Độ bền màu, hàm lượng thuốc nhuộm
Các đặc tính khác
Để chỉ cường độ các màu người ta thường dùng hai chữ cái liền nhau như: BB, RR, GG, hoặc đặt chữ số trước các chữ cái như: 2B, 6B,2R…Chữ số càng lớn màu càng mạnh. Những sắc trung gian được kí hiệu bằng hai chữ cái liền nhau.
1.2. Phân loại thuốc nhuộm
1. Bột màu phân tán
Phân làm ba nhóm:
Bột màu vô cơ tự nhiên
Bột màu vô cơ tổng hợp
Bột màu hữu cơ tổng hợp
Loại hữu cơ tổng hợp được xem là quan trọng nhất trong công nghiệp giấy, loại này không dùng nhuộm màu giấy mà làm thành phần lớp tráng vì nó có đặc tính không trôi theo nước khi gia công lớp tráng.
Đặc tính của bột màu phân tán:
Các phân tử không tan
Độ bền ánh sáng tốt
Giá trị màu thấp, nghĩa là phải dùng nhiều bột màu để đạt được độ màu như mong muốn và điều này làm giảm độ bền cho giấy.
Không có ái lực trực tiếp với xơ sợi và sự tương tác yếu với sợi sẽ nảy sinh ra sự bảo lưu kém của chúng lên xơi sợi. Để giải quyết vấn đề này người ta thường dùng thêm phèn. Khi dùng phèn, người ta hiệu chỉnh pH của hệ dưới 5 để giữ bột màu ở dạng hoạt động. ngoài ra còn dùng những chất trợ bảo lưu thích hợp.
Các chất màu dùng trong công nghiệp giấy với nhiều lý do, vừa mang vẻ mỹ quan vừa để mã hóa nhận biết sản phẩm. Việc chọn màu cho thích hợp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như yêu cầu sử dụng cuối cùng, các tính chất lý hóa, các đặc tính tồn trữ.
Có thể dùng một trong bốn nhóm màu sau:
Pigment (bột màu phân tán)
Phẩm nhuộm tổng hợp
Phẩm nhuộm trực tiếp
Phẩm nhuộm huỳnh quang
Các phẩm màu khác nhau về tính chất vật lý, tính chất hóa học, độ bền, độ tương tác với xenlulose,khoảng pH hiệu quả, độ hòa tan…Mặc khác, các nhà cung cấp khác nhau cũng cho ra những dòng phẩm nhuộm với những ưu, nhược điểm khác nhau nhằm mang tính chất cạnh tranh.
Trong quá trình sản xuất có sử dụng phẩm nhuộm, đã làm nảy sinh một vấn đề khác là độ màu tồn đọng trong nước thải gây ảnh hưởng đến nguồn nước tiếp nhận.
Vấn đề đặt ra ở đây là, làm sao có thể chọn được nhà cung cấp phẩm nhuộm thích hợp với điều kiện sản xuất và yêu cầu sản phẩm đầu ra của nhà máy, để chi phí sản xuất là thấp nhất, độ màu trong nước thải được hạn chế đến mức tối đa, nhằm góp phần giảm độ màu trong nước thải sẽ giảm được nguy cơ ô nhiễm nguồn nước tiếp nhận.
B. Tổng quan về phẩm màu
1. Lý thuyết cơ bản về màu sắc
Thuốc nhuộm có những màu sắc khác nhau là do chúng có khả năng hấp thụ chọn lọc các tia thấy được của quang phổ ánh sáng mặt trời. Mọi vật xung quanh ta có muôn màu muôn vẻ cũng là do chúng có khả năng hấp thụ và phản xạ những tia sáng khác nhau:
Vật có màu đen là do hấp thụ hoàn toàn tia tới thấy được
Vật có màu trắng là do phản xạ hoàn toàn tia tới thấy được
Vật chỉ hấp thụ một phần những tia tới và phản xạ phần còn lại với tỉ lệ các tia phản xạ gần bằng nhau thì có màu xám. Nếu trong số các tia phản xạ có một vài tia trội hơn thì vật sẽ có màu đa sắc, chỉ phản xạ một tia duy nhất thì có màu đơn sắc.
1.1. Tên gọi thuốc nhuộm
Gồm ba phần:
Phần 1: Để chỉ lớp thuốc nhuộm, viết bằng chữ đầy đủ, thường là tiếng anh, chỉ tên lớp thuốc nhuộm theo phân lớp kỹ thuật như: trực tiếp, acid…hoặc có thể dùng tên riêng của hãng sản xuất phải hiểu nó thuộc nhóm thuốc nhuộm nào.
Phần 2: Dùng để chỉ màu, thường là các tính từ chỉ màu thuốc nhuộm, có thể là màu đơn hoặc màu kép (thường bằng tiếng anh).
Phần 3: Là chữ cái và số dùng để chỉ:
Ánh màu (thường dùng là L)
Độ bền màu, hàm lượng thuốc nhuộm
Các đặc tính khác
Để chỉ cường độ các màu người ta thường dùng hai chữ cái liền nhau như: BB, RR, GG, hoặc đặt chữ số trước các chữ cái như: 2B, 6B,2R…Chữ số càng lớn màu càng mạnh. Những sắc trung gian được kí hiệu bằng hai chữ cái liền nhau.
1.2. Phân loại thuốc nhuộm
1. Bột màu phân tán
Phân làm ba nhóm:
Bột màu vô cơ tự nhiên
Bột màu vô cơ tổng hợp
Bột màu hữu cơ tổng hợp
Loại hữu cơ tổng hợp được xem là quan trọng nhất trong công nghiệp giấy, loại này không dùng nhuộm màu giấy mà làm thành phần lớp tráng vì nó có đặc tính không trôi theo nước khi gia công lớp tráng.
Đặc tính của bột màu phân tán:
Các phân tử không tan
Độ bền ánh sáng tốt
Giá trị màu thấp, nghĩa là phải dùng nhiều bột màu để đạt được độ màu như mong muốn và điều này làm giảm độ bền cho giấy.
Không có ái lực trực tiếp với xơ sợi và sự tương tác yếu với sợi sẽ nảy sinh ra sự bảo lưu kém của chúng lên xơi sợi. Để giải quyết vấn đề này người ta thường dùng thêm phèn. Khi dùng phèn, người ta hiệu chỉnh pH của hệ dưới 5 để giữ bột màu ở dạng hoạt động. ngoài ra còn dùng những chất trợ bảo lưu thích hợp.
Nhận xét
Đăng nhận xét